Đà Nẵng là một thành phố trực thuộc trung ương, nằm trong vùng Duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam, là thành phố trung tâm và lớn nhất khu vực miền Trung – Tây Nguyên.

    Thành phố Đà Nẵng là thành phố tổng hợp đa ngành, đa lĩnh vực; trung tâm chính trị – kinh tế – xã hội với vai trò là trung tâm công nghiệp, tài chính, du lịch, dịch vụ, văn hóa, giáo dục – đào tạo, y tế chất lượng cao, khoa học – công nghệ, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo của khu vực Miền Trung – Tây Nguyên và cả nước; trung tâm tổ chức các sự kiện tầm khu vực và quốc tế. Thành phố Đà Nẵng đóng vai trò hạt nhân, quan trọng trong Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, đồng thời cũng là một trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam, đô thị loại I, trung tâm cấp quốc gia, cùng với Hải Phòng và Cần Thơ.

    Bãi biển Mỹ Khê, được tạp chí Forbes (Mỹ) bình chọn là “một trong sáu bãi biển quyến rũ nhất hành tinh”

    Đà Nẵng nằm ở vị trí trung độ của Việt Nam, có vị trí trọng yếu cả về kinh tế – xã hội và quốc phòng – an ninh của khu vực Miền Trung – Tây Nguyên và cả nước; là đô thị biển và đầu mối giao thông rất quan trọng về đường bộđường sắtđường biển và đường hàng không.[6] Trong những năm gần đây, Đà Nẵng tích cực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, cải thiện môi trường, nâng cao an sinh xã hội và được coi là “Thành phố đáng sống nhất Việt Nam”.[7][8] Năm 2018, Đà Nẵng được chọn đại diện cho Việt Nam lọt vào Top 10 Địa điểm Tốt nhất để Sống ở Nước ngoài do Tạp chí Du lịch Live and Invest Overseas (LIO) bình chọn.[9]

    Tên gọi[sửa | sửa mã nguồn]

    Địa danh Đà Nẵng (chữ Hán: 沱㶞 hoặc 陀㶞) được nói đến sớm nhất trong sách Ô Châu cận lục (in lần đầu năm 1555 của Dương Văn An), quyển 5, “Tự từ” (chữ Hán: 寺祠, chùa và đền), “Thần từ” (chữ Hán: 神祠, đền thờ thần), “Tùng Giang từ” (chữ Hán: 松江祠, đền Tùng Giang):

    Nguyên văn Hán văn:

    松江祠。祠在思榮縣思客海門,並在廣南陀㶞海門。

    Phiên âm Hán Việt:

    Tùng Giang từ. Từ tại Tư Vinh huyện Tư Khách hải môn, tịnh tại Quảng Nam Đà Nẵng hải môn

    Dịch nghĩa:

    Đền Tùng Giang. Đền ở cửa biển Tư Khách, huyện Tư Vinh, còn một đền nữa ở cửa biển Đà Nẵng, Quảng Nam

    “Đà Nẵng” trong Ô Châu cận lục không phải là một địa danh hành chính mà chỉ là tên gọi của một cửa biển.

    Đà Nẵng là một tên dịch theo kiểu dịch âm kiêm dịch ý một phần, nếu phiên âm Hán-Việt thì đọc thành Đà Nhương, địa danh cần dịch đã được dịch bằng chữ Hán có âm đọc (âm Hán Việt) tương cận, ý nghĩa của chữ Hán dùng để dịch có liên quan nhất định với ý nghĩa của tên gọi được dịch. Phần lớn các ý kiến đều cho rằng tên gọi Đà Nẵng xuất phát từ vị trí nằm ở cửa sông Hàn của thành phố. Đó là một biến dạng của từ Chăm cổ “Da nak”, được dịch là “cửa sông lớn”.[10][11]

    Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu về Chăm là Inrasara và Sakaya đã có những đề xuất khác. Inrasara (tức Phú Trạm, nhà thơ và nhà nghiên cứu Văn hóa Chăm Pa) cho rằng “Đà Nẵng” là biến dạng của từ Chăm cổ ĐaknanĐak có nghĩa là nước, nan hay nưn, tức Ianưng có nghĩa là rộng. Địa danh Đaknan hàm ý chỉ vùng sông nước rộng mênh mông ở cửa sông Hàn. Còn nhà nghiên cứu Sakaya (tức Trương Văn Món) cho rằng “Đà Nẵng” có thể xuất phát từ nhóm ngôn ngữ Môn-KhmerĐakdơng – Đà dơng, có nghĩa là con sông. Đanang trong tiếng Chăm và Raglai cổ, cùng thuộc ngôn ngữ Malayo-Polynesia, có nghĩa là “nguồn”. “Đà Nẵng” là “sông nguồn”.[12] Nhưng nếu chúng ta xét về phương diện ngôn ngữ Chăm hiện đại, thì trong ngôn ngữ Ê-đêGia Rai thuộc nhóm Chamic vẫn còn lưu giữ cách gọi từ cổ như Krông Năng hay Rơ Năng hay Da Năng. Hiện tại, ngay cả một tỉnh đông người Chăm ở Campuchia vẫn giữ cách gọi một bến sông của người Chăm là “Kam pong Ch’Năng” và trở thành tên một tỉnh của Campuchia Kampong Chhnang có đông người Chăm sau tỉnh Kampong Cham. Tất cả các biến thể của ngôn ngữ Chăm Pa từ “Da Năng” thành ÊnangCh’nangR’nang trong ngôn ngữ ChămGia RaiÊ đêRaglai ngày nay đều mang nghĩa là bình yên, thanh bình. Kampong Danang tức là Bến sông Thanh bình. Da Nang trong tiếng là nương tựa, “vì 2 ông Sakaya và Inrasara là người Chăm vùng Panduranga nên không hiểu rõ từ Danang trong tiếng người Chăm chuẩn, vì tiếng Chăm Panduranga gọi Danang thành Danưng”.

    Bản đồ Annam được vẽ bởi Alexandre de Rhodes có địa danh “Cua han“.

    Người Trung Quốc gọi Đà Nẵng là Hiện Cảng, vốn được viết bằng chữ Hán là 蜆港, về sau được đổi thành 峴港. Thời xưa tàu thuyền Trung Quốc đi Đà Nẵng thường lấy hòn Sơn Trà làm mốc định vị phương hướng. Hòn Sơn Trà có hình dáng giống con hến nên người Trung Quốc đã gọi nơi đây là “Hiện Cảng” (蜆港), có nghĩa là “Bến Hến”. Về sau một số người không hiểu rõ nguồn gốc của tên gọi này, thấy xung quanh Đà Nẵng có nhiều núi non bao bọc nên đã thay chữ “hiện” 蜆 có nghĩa là “con hến” bằng chữ “hiện” 峴 là từ dùng để chỉ núi nhỏ mà cao.

    Một tên gọi khác được đặt cho Đà Nẵng là Cửa Hàn (dịch nghĩa “cửa của sông Hàn”). Theo tác giả Võ Văn Dật thì từ Hàn đã được Việt hóa từ cách đọc theo tiếng Hải Nam của địa danh “Hiện Cảng” 蜆港 là “Hành Càng” hay “Hàn Càng”.[13]

    Giáo sĩ Buzomi – đến Đà Nẵng năm 1615 – đã gọi nơi này là Porte de Kéan. Bản đồ châu Á do Sanson d’Abbeville vẽ năm 1652 ghi Đà Nẵng là Turaon. Giáo sĩ Christoforo Borri – đến Đà Nẵng năm 1618 – khi viết hồi ký về xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn thì đã gọi Đà Nẵng là Touron. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes là người từng lui tới Đà Nẵng nhiều lần và đã gọi nơi này là Turon; trong bản đồ của ông ghi là “Kean” (“Kẻ Hàn”, kẻ trong “kẻ chợ”).[14]

    Cho đến giữa thế kỷ XIX, địa danh “Đà Nẵng” vẫn còn là tên gọi của một vùng lãnh thổ gắn liền với một cửa biển, một vũng nước sâu, một “cửa quan” hay một “tấn sở”.[15] Các vua triều Nguyễn từ Gia Long đến cả Tự Đức nghiêng về ý nghĩa phòng thủ của nơi này hơn là phát triển Đà Nẵng thành một đô thị sầm uất.[16] Vì vậy mà thời kì này Đà Nẵng được gọi là một “tấn”, tức là một vị trí trọng yếu phòng thủ.[17] Cho đến khi Pháp khai hỏa xâm chiếm thì Đà Nẵng vẫn chỉ là một vị trí, một địa bàn chiến lược về quân sự và chưa từng là một địa danh chỉ đơn vị hành chính.[17]

    Bản đồ Tourane (Đà Nẵng) thời Pháp thuộc.

    Từ năm 1888 cho đến hết thời Pháp thuộcTourane là tên chính thức của Đà Nẵng.[18] Có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc của từ Tourane. Thứ nhất đó là lối nói trại từ chữ Châu Ranh (chỉ ranh giới Việt NamChiêm Thành). Ý kiến thứ hai cho rằng nó bắt nguồn từ một làng có tên là Thạc Gián bị viết lầm là Tu Gián. Ý kiến thứ ba giải thích rằng Tourane chỉ địa danh của một nơi vốn có một cái tháp (tour) trên cửa Hàn.[19]

    Trong văn hóa dân gian, Vũng Thùng là một tên thông tục khác để đề cập đến Đà Nẵng (hiện nay Vũng Thùng là tên gọi của một vụng biển nhỏ ở phía đông bắc phường Nại Hiên Đông, quận Sơn Trà dùng để neo đậu tàu thuyền của ngư dân).[20] Các nhà Nho nói chữ thì gọi là Trà ÁoTrà Sơn hay Đồng Long Loan.[19]

    Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Tourane đổi tên thành Thái Phiên – nhà yêu nước nổi tiếng của đất Quảng Nam đã lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Duy Tân năm 1916. Tuy nhiên vào ngày 9 tháng 10 năm 1945, Hội đồng Chính phủ ra quyết nghị giữ nguyên tên cũ của các đơn vị hành chính từ cấp kỳ, thành phố, tỉnh, huyện trong cả nước để tiện việc thông tin liên lạc và công văn giấy tờ. Thành phố trở lại tên gọi cũ Đà Nẵng.[21][22][Ghi chú 1]

    Địa lý[sửa | sửa mã nguồn]

    Vị trí địa lý[sửa | sửa mã nguồn]

    Huyện đảo Hoàng Sa.

    Tọa độ phần đất liền của thành phố Đà Nẵng từ 15°15′ đến 16°40′ vĩ độ Bắc và từ 107°17′ đến 108°20′ kinh độ Đông. Nằm ở trung độ của Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội 766 km về phía Bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh 961 km về phía Nam theo Quốc lộ 1.[23] Diện tích khoảng 1285,4 km2.

    Thành phố Đà Nẵng Đà Nẵng còn là trung điểm của các di sản thế giới: Cố đô HuếPhố cổ Hội An và Thánh địa Mỹ Sơn. Thành phố Đà Nẵng nằm trên trục giao thông Bắc – Nam về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không, là một trong những cửa ngõ quan trọng ra biển của Tây Nguyên và các nước Lào, đông bắc CampuchiaThái Lan và Myanma.[24] Khoảng cách từ Đà Nẵng đến các trung tâm kinh tế chính của khu vực Đông Nam Á như Bangkok (Thái Lan), Kuala Lumpur (Malaysia), SingaporeManila (Philippines) đều nằm trong khoảng 1.000–2.000 km.[25]

    Các điểm cực của thành phố Đà Nẵng:[sửa | sửa mã nguồn]

    • Điểm cực bắc tại: phường Hòa Hiệp Bắc, quận Liên Chiểu.
    • Điểm cực tây tại: xã Hòa Bắc, huyện Hòa Vang.
    • Điểm cực nam tại: xã Hòa Khương, huyện Hòa Vang.
    • Điểm cực đông tại: phường Thọ Quang, quận Sơn Trà.

    Ngoài phần đất liền, vùng biển của thành phố gồm quần đảo Hoàng Sa (khu vực đang bị chiếm đóng trái phép bởi Trung Quốc) nằm ở 15°45’ đến 17°15’ vĩ độ Bắc, 111° đến 113° kinh độ Đông, ngang bờ biển các tỉnh Quảng TrịThừa Thiên HuếQuảng Nam và một phần tỉnh Quảng Ngãi; cách đảo Lý Sơn (thuộc tỉnh Quảng Ngãi) khoảng 120 hải lý. Khu vực quần đảo nằm trên vùng biển rộng khoảng 30.000 km². Tổng diện tích phần nổi của quần đảo khoảng 10 km², trong đó đảo Phú Lâm chiếm diện tích lớn nhất (nguồn Việt Nam: khoảng 1,5 km², nguồn Trung Quốc: 2,1 km²[26]).

    Hoàng Sa án ngữ đường hàng hải quốc tế huyết mạch từ Thái Bình Dương qua Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương. Vùng biển này có tiềm năng lớn về khoáng sản, hải sản, có thuận lợi để phát triển kinh tế nhưng quan trọng hơn đây là vị trí quân sự chiến lược, khống chế đường giao thông trên biển và trên không trong khu vực phía Bắc biển Đông.[27] Bốn điểm cực của quần đảo Hoàng Sa là:

    Điều kiện tự nhiên[sửa | sửa mã nguồn]

    Thành phố Đà Nẵng có địa hình, thiên nhiên đa dạng, có biểnbán đảo, vùng vịnh, đồi núi, sôngsuốiđồng bằng phân bố trong lòng thành phố đóng góp vào phát triển kinh tế, du lịch.

    Địa hình[sửa | sửa mã nguồn]

    Về mặt địa chất, Đà Nẵng nằm ở rìa của miền uốn nếp Paleozoi được biết đến với tên gọi Đới tạo núi Trường Sơn – nơi mà những biến dạng chính đã xảy ra trong kỷ Than đá sớm.[28] Cấu trúc địa chất khu vực Đà Nẵng gồm có năm đơn vị địa tầng chủ yếu, lần lượt từ dưới lên là: hệ tầng A Vương, hệ tầng Long Đại, hệ tầng Tân Lâm, hệ tầng Ngũ Hành Sơn và trầm tích Đệ Tứ. Trong đó các hệ tầng A Vương, Long Đại, Tân Lâm có thành phần thạch học chủ yếu là đá phiến và sa thạch. Hệ tầng Ngũ Hành Sơn chủ yếu là đá vôi hoa hóa màu xám trắng. Trầm tích Đệ Tứ bao gồm các thành tạo sông, sông – biển, biển, biển – đầm lầy có tuổi từ Pleistocen sớm đến Holocen muộn, chủ yếu là cát, cuội, sỏi, cát pha, sét pha,… Vỏ Trái Đất tại lãnh thổ thành phố Đà Nẵng bị nhiều hệ thống đứt gãy theo phương gần á vĩ tuyến và phương kinh tuyến chia cắt, làm giảm tính liên tục của đá, giảm độ bền của chúng, nhất là tạo nên các đới nứt nẻ tăng cao độ chứa nước. Đây là hiểm họa trong khi xây dựng các công trình.[29]

    Địa hình thành phố Đà Nẵng vừa có đồng bằng duyên hải, vừa có đồi núi. Vùng núi cao và dốc tập trung ở phía tây và tây bắc, từ đây có nhiều dãy núi chạy dài ra biển, một số đồi thấp xen kẽ vùng đồng bằng ven biển hẹp. Địa hình đồi núi chiếm diện tích lớn, độ cao khoảng từ 700 – 1.500 m, độ dốc lớn (>40o), là nơi tập trung nhiều rừng đầu nguồn và có ý nghĩa bảo vệ môi trường sinh thái của thành phố. Đồng bằng ven biển là vùng đất thấp chịu ảnh hưởng của biển bị nhiễm mặn, là vùng tập trung nhiều cơ sở nông nghiệpcông nghiệp, dịch vụ, quân sự, đất ở và các khu chức năng của thành phố.[30] Ở khu vực cửa sông Hàn và sông Cu Đê địa hình đáy biển bị phức tạp và tạo ra một số bãi cạn, trũng ngầm (lòng sông). Khu vực cửa vịnh ra ngoài khơi địa hình nhìn chung là nghiêng thoải về phía đông bắc. Khoảng cách các đường đẳng sâu khá đều đặn.[31]

    Hải đảo[sửa | sửa mã nguồn]

    Quần đảo Hoàng Sa (Việt Nam) gồm hai cụm đảo chính là Cụm đảo Lưỡi Liềm ở phía tây và Cụm đảo An Vĩnh ở phía đông. Cụm đảo Lưỡi Liềm nằm về phía tây, có hình cánh cung hay lưỡi liềm, bao gồm các đảo là Hoàng SaHữu NhậtDuy MộngQuang ẢnhQuang HòaBạch QuyTri Tôn cùng các mỏm đá, bãi ngầm. Cụm đảo An Vĩnh nằm về phía đông bao gồm các đảo tương đối lớn của quần đảo Hoàng Sa và cũng là các đảo san hô lớn nhất của biển Đông như đảo Phú Lâmđảo Câyđảo Linh Cônđảo Trungđảo Bắcđảo Nam và cồn cát Tây.[32] Nhiều thực thể trong quần đảo biểu hiện dạng vành khuyên cổ của các rạn san hô vòng Thái Bình Dương, vốn dĩ là kết quả phát triển của san hô cộng với sự lún chìm của vỏ Trái Đất. Hình thái địa hình các đảo tương đối đơn giản nhưng mang đậm bản sắc của địa hình ám tiêu san hô vùng nhiệt đới có cấu tạo ba phần khác nhau đó là phần đảo nổi, hành lang bãi triều (thềm san hô) bao quanh đảo và sườn bờ ngầm dốc đứng. Đa số các đảo nổi có độ cao dưới 10 m.[33]